Tìm hiểu về dân tộc Thái ở Việt Nam để hiểu hơn về những đặc điểm văn hóa truyền thống lâu đời, để thêm yêu và tự hào về 54 dân tộc anh em của Việt Nam.
Tìm hiểu về dân tộc Thái ở Việt Nam: Nguồn gốc
Khi tìm hiểu về dân tộc Thái, có rất nhiều nguồn tài liệu giới thiệu về dân tộc này. Lịch sử của dân tộc Thái khá phức tạp nên bài viết này chỉ tập trung giới thiệu những nét đặc sắc nhất. Ngoài ra, nếu muốn hiểu hơn về người Thái, du khách có thể về các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta để trải nghiệm cuộc sống như người bản địa.
Dân tộc Thái ở Việt Nam là một nhóm thuộc sắc tộc Thái từ miền Nam của Trung Quốc di chuyển về khu vực các quốc gia Đông Á. Người Thái được chia thành người Thái Đen, Thái Trắng và Thái Đỏ. Ngoài ra còn một số nhóm nhỏ khác, hình thành nên một dân tộc với lịch sử phát triển lâu đời.
Theo đó, dân tộc Thái ở nước ta xuất hiện khoảng 1000 năm trước, có chữ viết và ngôn ngữ riêng. Địa bàn cư trú của người Thái thường là các tỉnh miền núi bao gồm Điện Biên, Lai Châu, Hòa Bình, Sơn La, Yên Bái, Lào Cai và khu vực Thanh Hóa, Nghệ An. Theo thống kê, dân tộc Thái đứng ở vị trí thứ 3 trong về dân số các dân tộc ở Việt Nam.
Vài nét đặc sắc về văn hóa của người Thái
Khi dành thời gian tìm hiểu về dân tộc Thái, bạn sẽ thấy đây là một dân tộc làm nông nghiệp khá giỏi. Họ chủ yếu phát triển cuộc sống bằng nghề trồng lúa nước, làm nương rẫy và nuôi các loại gia súc, gia cầm. Ngoài ra, người Thái còn làm gốm, đan lát, dệt vải,… Có dịp khám phá bản Lác ở Mai Châu Hòa Bình, bạn sẽ hiểu hơn về cuộc sống của người dân nơi đây.
Đi thăm những bản làng đẹp của người Thái, bạn sẽ thấy họ sinh sống trong những ngôi nhà sàn rất đẹp. Kiến trúc nhà sản được xây dựng với nóc hình mai rùa, nhà có lan can cẩn thận, có khung cửa sổ trang trí rất độc đáo. Đặc biệt, người Thái Đen còn đặt tên riêng cho các gian nhà.
Tùy vào địa bàn cư trú mà người Thái thường xây nhà ở vị trí dưới khu vực chân núi. Xung quanh là ruộng lúa, là vườn cây xanh tươi mướt mát rất đẹp. Giữa phong cảnh hữu tình của những vùng núi cao, nếp nhà người Thái hiện lên với vẻ đẹp bình yên, mang lại cảm giác rất thư thả, thoải mái cho du khách.
Càng tìm hiểu về dân tộc Thái, du khách càng nhận ra nhiều điều hay ho và thú vị của họ. Trong các dân tộc thiểu số ở nước ta, người Thái là một dân tộc rất thích ca hát, nhảy múa, làm thơ, đệm đàn. Họ có điệu múa xòe, múa sạp rất nổi tiếng, trở thành di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam.
Đặc biệt, đây cũng là dân tộc có rất nhiều lễ hội lớn nhỏ trong năm. Tiêu biểu là lễ hội hoa ban để cầu mưa, cầu phúc cho người dân. Bên cạnh đó còn có lễ hội cơm mới, cầu mưa, cầu mùa,… với nhiều hoạt động tưng bừng, nhộn nhịp. Có dịp du lịch Lai Châu, Hòa Bình, Điện Biên,… du khách sẽ có cơ hội tham gia những lễ hội đặc biệt này.
Tham dự các lễ hội của người Thái, bạn còn được chiêm ngưỡng các thiếu nữ Thái diện trang phục truyền thống rất đẹp. Mỗi nhóm nhỏ trong cộng đồng dân tộc Thái sẽ có trang phục với dấu ấn riêng. Tuy nhiên về cơ bản, họ sẽ mặc váy đen không hoa văn, kết hợp với áo ngắn hoặc áo dài có cúc áo đẹp. Đặc biệt, người dân tộc Thái còn nổi tiếng với chiếc khăn piêu đội đầu được dệt kỳ công, tinh xảo.
Về văn hóa tâm linh, người Thái cho rằng con người sau khi chết đi sẽ tiếp tục “sống” ở một thế giới khác. Đám tang là một lễ để tiễn người chết về với “Mường Trời”. Người chết sẽ được chôn trong rừng – nơi có nhà mồ và nấm mộ rất chỉn chu. Về cơ bản, quan niệm tâm linh này cũng giống như nhiều dân tộc khác tại Việt Nam.
Khi về thăm các bản làng của người Thái ở miền núi phía Bắc nước ta, du khách còn có cơ hội trải nghiệm những món ngon truyền thống. Một số món ngon nổi tiếng mà du khách cực yêu thích chính là cơm lam, nộm hoa ban, canh bon, nậm pịa, nộm rau dớn, rêu đá nướng, pa pỉnh tộp,… Mỗi món ăn với hương vị thơm ngon đặc trưng chắc hẳn sẽ khiến du khách nhớ mãi.
Những bản làng người Thái đẹp ở nước ta
Trên bản đồ du lịch Việt Nam có nhiều bản làng đẹp của người dân tộc Thái được đầu tư phát triển du lịch. Ở Mai Châu Hòa Bình có bản Lác xinh đẹp – nơi mà người dân cư trú trong những nếp nhà sàn nằm giữa ruộng lúa mênh mông, hùng vĩ. Ở bản Lác, bạn có thể thư thả đi dạo khắp bản, ăn những món ngon và thả ga sống ảo.
Có dịp du lịch Yên Bái, du khách cũng có thể khám phá Mường Lò ở thị xã Nghĩa Lộ. Nơi đây, người Thái sống quần tụ trong những thung lũng xinh đẹp của Mường Lò, chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp. Đặc biệt, người Thái ở Mường Lò nổi tiếng với điệu múa xòe rất đẹp, được trình diễn vào những lễ hội lớn.
Ngoài ra, nếu đi về khu vực tỉnh Điện Biên, bạn cũng có thể vi vu Mường Phăng để ngắm bức tranh thiên nhiên hoang sơ và tìm hiểu về dân tộc Thái ở đây. Ở vùng này là địa bàn cư trú của người Thái Đen với nhiều nét văn hóa truyền thống độc đáo, hứa hẹn mang lại cho du khách nhiều trải nghiệm thực sự đáng nhớ.
Có thể nói rằng khi tìm hiểu về dân tộc Thái ở Việt Nam, du khách sẽ càng cảm nhận trọn vẹn hơn sự thú vị của dân tộc này. Từ nhà ở, trang phục, văn hóa cho đến ẩm thực của người Thái đều mang một dấu ấn riêng, hứa hẹn mang lại cho người miền xuôi nhiều ấn tượng khó phai.
Trà Văn (tổng hợp) - luhanhvietnam.com.vn
Dân tộc Choang phân bố chủ yếu ở khu tự trị dân tộc Choang, tỉnh Quảng Tây (chiếm 91%); châu tự trị dân tộc Choang, Miêu Văn Sơn, Vân Nam, huyện tự trị dân tộc Choang, Dao Liên Sơn, Quảng Đông và rải rác ở các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Tứ Xuyên.
Ngôn ngữ dân tộc Choang thuộc ngữ hệ Hán Tạng, nhóm ngôn ngữ Choang Động, chi tiếng Choang Thái, rất giống với tiếng dân tộc Tày, Nùng ở vùng núi phía Bắc Việt Nam, tiếng Thái Lan, tiếng Lào và tiếng Shan ở Myanmar.
Dân tộc Choang có chữ viết riêng của mình. Từ thời Nam Tống đã xuất hiện một loại chữ được cấu thành trên cơ sở chữ Hán, gọi là “Thổ tục”, nhưng được sử dụng phố biến. Năm 1955, dân tộc Choang tạo ra chữ viết phiên âm dùng chữ cái La tinh là cơ sở, đến tháng 11 năm 1957 được Quốc vụ viện Trung Quốc phê chuẩn và lưu hành rộng rãi cho đến ngày nay.
Người Choang chủ yếu sinh sống bằng nông nghiệp trồng lúa nước. Nền nông nghiệp của họ đã có từ lâu đời và ngày càng phát triển. Thủ công nghiệp của họ cũng rất phát triển, thông qua các nghề dệt, nhuộm vải; làm đồ gốm sứ, đúc trống đồng. Kỹ thuật đóng thuyền của họ cũng được đánh giá cao.
Người Choang có hình thức sinh hoạt chợ phiên. Năm 1983, khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây định hội hát chợ phiên vào ngày 3 tháng 3 âm lịch hàng năm, từ đó còn gọi là “Tết 3 tháng 3”. Trong chợ phiên, thường có ca hát đối đáp và các cuộc vui dân gian như ném tú cầu, bắn pháo bông, múa lân, thi kéo co, bắn nỏ… Đặc biệt, dân ca của dân tộc Choang có nội dung phong phú, được đánh giá là viên ngọc quý trong kho tàng văn nghệ dân gian của người Choang.
Người Choang có một nền văn hóa nghệ thuật phong phú, nhiều màu sắc. Văn học dân gian, hội họa, âm nhạc… đều có những thành tựu to lớn. Người Choang nổi tiếng thích ca hát nhảy múa, dùng lời ca tiếng hát miêu tả cuộc sống và biểu đạt tư tưởng, tình cảm của mình.
Hình thức nghệ thuật sân khấu dân tộc của người Choang là kịch Choang, bắt nguồn từ hình thức ca múa dân gian, ngày nay phát triển rất mạnh mẽ với nhiều đoàn kịch chuyên nghiệp.
Mỹ thuật của người Choang có những biểu hiện đa dạng. Tranh vẽ trên vách ở Hoa Sơn, lưu vực sông Tả là di sản văn hóa quý báu do tổ tiên người Choang sáng tạo ra cách đây hơn 2.000 năm. Phạm vi tranh vẽ cao 40 mét, dài hơn 220 mét, có 1.800 hình vẽ khác nhau.
Trống đồng là vật phẩm nghệ thuật quý báu của dân tộc Choang, vừa là nhạc cụ, vừa là vật tượng trưng cho quyền lực và sự giàu có. Những hoa văn đúc trên mặt trống đồng thể hiện trình độ nghệ thuật cao của người Choang từ mấy ngàn năm trước. Ở Bảo tàng Dân tộc Quảng Tây hiện đang bảo quản hơn 500 trống đồng của người Choang.
Người Choang là dân tộc có phong vị ẩm thực phong phú. Những món ăn nổi tiếng là cơm nếp năm màu, cơm nếp bí đỏ, cơm nếp khoai lang, bánh tét, bánh dày, đậu hũ viên nhồi thịt, thịt lợn quay…
Hình thức nhà ở của người Choang có 3 loại: nhà sàn, nhà trệt và nửa nhà sàn, nửa nhà trệt.
Vải gấm Choang là sản phẩm thủ công mỹ nghệ nổi tiếng của người Choang, chất liệu bền chắc, hoa văn tinh xảo, sinh động, nhiều màu sắc, được người Choang tự hào và khách du lịch ưa chuộng.
Trang phục truyền thống của người Choang cách đây 100 năm về trước: nam giới mặc áo ngắn không cổ, cài khuy giữa, quần ống rộng, đầu quấn khăn; nữ giới mặc váy gấp nếp, áo ngắn không cổ có viền hoa, đầu quấn khăn hoa. Ngày nay họ mặc áo dài hoặc ngắn có cổ, may bằng vải tự dệt màu xanh dương đậm, đen hoặc đỏ, hay mặc trang phục hiện đại.
Người Choang thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng, lưu truyền tập tục phụ nữ không về nhà chồng, vẫn ở nhà cha mẹ đẻ, chỉ những ngày lễ tết hay ngày mùa mới về nhà chồng ở một thời gian. Ngày xưa chồng phải theo họ vợ, ngày này có thể không cần đổi nữa nhưng vẫn phải theo tập tục ở rể. Đây được xem là tàn tích của chế độ mẫu hệ trong lịch sử dân tộc.