Mỹ Ra Lệnh Trừng Phạt Việt Nam Tại Mỹ

Mỹ Ra Lệnh Trừng Phạt Việt Nam Tại Mỹ

Mỹ có thể áp lệnh trừng phạt mới với người mua và đội tàu dầu chuyên chở dầu Nga, nhằm siết thêm nguồn thu từ năng lượng của nước này.

Mỹ âm thầm mua khối lượng kỷ lục uranium làm giàu từ Nga bất chấp lệnh trừng phạt

11/07/2024 07:00 Việt Dũng

ANTD.VN - Bất chấp đã ban hành lệnh cấm nhập khẩu uranium làm giàu từ Nga, Mỹ vẫn âm thầm mua gom mặt hàng trên với khối lượng rất lớn.

Theo nhận định của Niels Graham, Phó Giám đốc Trung tâm Địa kinh tế thuộc Hội ​​đồng Đại Tây Dương, khi các nước G7 nhóm họp ở Hiroshima (Nhật Bản) dự kiến diễn ra từ ngày 19-22/5, họ sẽ tập trung vào việc làm thế nào để tăng thêm áp lực kinh tế đối với Nga. Trong khi đó, các thành viên G7 vẫn xuất khẩu khoảng 4,7 tỷ USD mỗi tháng sang Nga, tương đương khoảng 43% so với những gì họ đã làm trước khi cuộc xung đột ở Ukraine nổ ra.

Hiện Mỹ muốn tiến xa hơn và đã đề xuất thay thế chế độ trừng phạt theo từng ngành hiện có bằng lệnh cấm xuất khẩu hoàn toàn (có miễn trừ đối với thực phẩm và các sản phẩm y tế). Nếu được thực hiện như đề xuất, xuất khẩu hiện tại của G7 sang Nga sẽ giảm thêm hơn 60%. Nhưng điều này sẽ không dễ dàng đạt được, theo ông Graham.

Sau 15 tháng xung đột Nga-Ukraine, G7 đã thực hiện hàng loạt biện pháp kinh tế nhằm vào Moskva và nhận được sự đồng thuận trong nhóm. Các lựa chọn còn lại sẽ ngày càng gây tranh cãi và sẽ gây tổn thất lớn hơn cho nền kinh tế trong nước của chính các nước G7. Để hiểu cuộc tranh luận về lệnh cấm xuất khẩu hoàn toàn sẽ diễn ra như thế nào, điều quan trọng là bắt đầu bằng việc phân tích những mặt hàng mà các nền kinh tế G7 vẫn xuất khẩu sang Nga.

Xuất khẩu còn lại của G7 sang Nga

Kể từ khi xung đột ở Ukraine diễn ra vào năm ngoái, G7 đã thực hiện chế độ kiểm soát xuất khẩu và trừng phạt lớn nhất từng áp đặt đối với một nền kinh tế lớn của thế giới. Xuất khẩu từ G7 sang Nga đã giảm khoảng 5,7 tỷ USD mỗi tháng so với mức trung bình trước xung đột, dẫn đến tổng xuất khẩu giảm 57%.

Điều này đã dẫn đến sự sụt giảm đáng kể trong thương mại các hàng hóa quan trọng như máy móc và thiết bị cơ khí (giảm 64,6%), ô tô và xe tải (giảm 77,4%). Xuất khẩu máy bay đã bị ảnh hưởng đặc biệt sau các biện pháp trừng phạt và kiểm soát sâu rộng đối với các sản phẩm được sử dụng bởi ngành hàng không và vũ trụ với xuất khẩu G7 giảm khoảng 98,6%, ước tính tương đương là 4,03 tỷ USD.

Tuy nhiên, các thành viên G7, dẫn đầu là EU, tiếp tục xuất khẩu khoảng 4,7 tỷ USD mỗi tháng sang Nga. Các mặt hàng xuất khẩu lớn nhất kể từ tháng 3/2022 là dược phẩm, máy móc, thực phẩm và hóa chất.

Từ tháng 3/2022 đến tháng 12/2022, xuất khẩu hàng hóa của G7 đạt tổng cộng khoảng 46,8 tỷ USD. Các quan chức Mỹ hy vọng sẽ thay đổi điều này. Thất vọng với cơ chế hiện tại mà Washington coi là quá mềm mỏng và cho phép Moskva tiếp tục nhập khẩu công nghệ phương Tây, Mỹ đã đề xuất một lệnh cấm xuất khẩu hoàn toàn với các miễn trừ chủ yếu đối với thực phẩm và các sản phẩm y tế. Nếu được thực hiện như đề xuất, một hạn chế như vậy có thể làm giảm thêm xuất khẩu của G7 sang Nga khoảng 67%, xuống chỉ còn 1,5 tỷ USD một tháng.

Đối với Mỹ, sự đánh đổi của lệnh cấm xuất khẩu hoàn toàn là tối thiểu khi nước này hiện chỉ xuất khẩu khoảng 80 triệu USD hàng tháng sang Nga. Tuy nhiên, đối với EU và Nhật Bản, lần lượt chiếm 89% và 7% xuất khẩu còn lại của G7 sang Nga, yêu cầu như vậy có thể là một bước đi quá xa. Cả Brussels và Tokyo đã báo hiệu một đề xuất như vậy “có thể không thực tế”.

Đối với nhiều nước trong EU, Nga vẫn là một thị trường xuất khẩu quan trọng. 8 trong số 27 quốc gia thành viên của EU vẫn duy trì hơn 1% tổng kim ngạch xuất khẩu của họ sang Nga, trong đó đáng chú ý là Latvia và Litva vẫn đảm bảo 9,7% và 5,7% kim ngạch xuất khẩu hàng tháng tương ứng của họ.

Trong khi đó, các nước lớn ở châu Âu như Đức, Italy và Hà Lan xuất khẩu hàng hóa trị giá hàng trăm triệu USD sang Nga. Sau 10 vòng trừng phạt, các nhà hoạch định chính sách G7 đã áp đặt các biện pháp hạn chế bao trùm gần như tất cả các lĩnh vực chiến lược quân sự. Những gì còn lại là các dòng thương mại ít quan trọng hơn như xuất khẩu sô cô la của Đức hoặc nước hoa của Tây Ban Nha.

Trong khi sự thống nhất của EU xung quanh việc hỗ trợ cho Ukraine vẫn còn mạnh mẽ, các cuộc thăm dò gần đây cho thấy công dân châu Âu đang ngày càng lo lắng về tác động tiêu cực của cuộc xung đột. Đối với các nhà lãnh đạo ở Brussels, lệnh cấm xuất khẩu có thể không thực tế với nhiều quốc gia thành viên khi họ muốn yêu cầu cắt giảm và miễn trừ cho các ngành công nghiệp bị ảnh hưởng của họ như đã làm với các đợt trừng phạt trước đó.

Đối với Nhật Bản, sự phản đối bắt nguồn từ lo ngại rằng Moskva có thể đáp trả bằng cách ngừng giao dịch năng lượng. Mặc dù nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) của Nhật Bản từ Nga ban đầu giảm ngay sau khi xung đột nổ ra, nhưng nó đã phục hồi với LNG của Nga chiếm trung bình 7,8% tổng lượng nhập khẩu của Tokyo, chỉ giảm nhẹ so với mức trung bình trước xung đột là 9,1%.

Đây không phải là lần đầu tiên sự phụ thuộc của Nhật Bản vào xuất khẩu LNG của Nga cản trở việc thực hiện đầy đủ các chính sách của G7. Đến cuối năm ngoái, Tokyo vẫn được miễn trừ áp trần giá dầu của G7 để đảm bảo Nga vẫn có thể vận chuyển một lượng nhỏ dầu thô được khai thác cùng với khí đốt tự nhiên mà nước này xuất khẩu sang Nhật Bản. Nhật Bản phản đối các biện pháp của G7 không phải là không có lý do.

Nhật Bản là quốc gia nghèo tài nguyên và có môi trường an ninh năng lượng dễ bị tổn thương nhất trong G7. Tỷ lệ tự túc năng lượng của Nhật Bản chỉ là 11%, thấp hơn nhiều so với Mỹ (106%), Canada (179%), Anh (75%), Pháp (55%) và thậm chí cả Đức (35%). LNG, giúp cung cấp khoảng 36% điện năng của Nhật Bản vào năm 2021, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo các doanh nghiệp và người tiêu dùng có đủ năng lượng thiết yếu.

Tóm lại, ông Graham cho rằng việc xem xét lệnh cấm xuất khẩu tiếp theo đặt ra những thách thức lớn hơn mà các nhà lãnh đạo G7 sẽ phải đối mặt ở Hiroshima. Các nhà lãnh đạo G7 đã đồng thuận thực hiện gần như tất cả các biện pháp kinh tế được thiết kế để giảm nguồn lực cung cấp cho quân đội Nga. Nhưng có một lý do khiến các tùy chọn còn lại chưa được thực hiện: chúng có vấn đề và sẽ làm căng thẳng cho sự đồng thuận vốn mong manh của G7 đối với Nga.

Số liệu do Bộ Tài chính Nga công bố mới đây cho thấy trong nửa đầu năm, số tiền ngân sách có được từ bán dầu khí tăng 41% so với cùng kỳ năm ngoái, lên 5.698 tỷ rúp. Nguyên nhân chủ yếu là giá dầu tăng và đồng rúp yếu đi.

Dầu khí là nguồn thu quan trọng của chính phủ Nga, đóng góp khoảng 30-50% ngân sách nước này trong thập kỷ trước. Chiến sự Nga - Ukraine đã khiến phương Tây áp đặt nhiều lệnh trừng phạt nhằm siết nguồn thu này của Nga.

Dù vậy, các chuyên gia cho rằng đến nay, chính sách này chỉ khiến "dòng chảy" năng lượng Nga đổi hướng, chuyển từ phương Tây sang phương Đông. Cụ thể, dầu Nga đã tìm được đường vào các thị trường tại châu Á như Trung Quốc và Ấn Độ.

Nửa đầu năm nay, giá dầu của Nga đạt trung bình 69,1 USD/thùng, cao hơn mức trần xuất khẩu mà phương Tây áp là 60 USD/thùng và tăng mạnh so với 52,5 USD/thùng của cùng kỳ năm ngoái.

Tàu chở dầu gần thành phố cảng Nakhodka, Nga (Ảnh: Reuters).

Thống kê của Bloomberg cho thấy, trong tuần cuối cùng của tháng 6, doanh số bán dầu của Nga đã tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 3 và giá thành đã tăng 25%.

Theo đó, ngân sách Nga đang nhận được số tiền từ dầu mỏ gấp đôi so với một năm trước. Giá xuất khẩu dầu cao hơn, đồng thời đồng rúp giảm giá 15% so với cùng kỳ tính thuế, góp phần thúc đẩy thu ngân sách Nga tăng trưởng.

Các chuyên gia cho rằng doanh thu dầu khí Nga tăng, đồng nghĩa rằng giá trần hoàn toàn vô tác dụng. Nga đang tiếp tục bán tài nguyên năng lượng một cách có lãi.

Năm nay, Nga dự kiến thu 10.700 tỷ rúp từ việc bán dầu khí, tăng 21% so với năm ngoái. Ngân sách Nga đã thâm hụt 2 năm liên tiếp ở mức 3.000 tỷ rúp, tương đương 2% GDP. Nguyên nhân chủ yếu là nước này chi mạnh tay cho quốc phòng an ninh sau chiến sự.

Năm ngoái, GDP Nga tăng 3,6% năm 2023, sau khi giảm 1,2% năm 2022. Tổng thống Nga Vladimir Putin nhiều lần đề cập đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nga và cho rằng số liệu này vượt trội so với các nước phương Tây.