Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, ước tính tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2021 tăng 2,58% và đây cũng là mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2011-2021 do ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19.
Nội dung yêu cầu không tồn tại.Vui lòng click vào đây để về trang chủ.
'Trong bối cảnh COVID-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế-xã hội thì tăng trưởng GDP năm 2020 đạt 2,91% là thành công lớn của Việt Nam.'
“GDP năm 2020 tăng 2,91% và là mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2011-2020. Tuy nhiên, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế-xã hội thì đây là thành công lớn của Việt Nam với mức tăng trưởng năm 2020 thuộc nhóm cao nhất thế giới,” bà Nguyễn Thị Hương, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê trao đổi tại họp báo công bố thống kê kinh tế-xã hội quý 4 và cả năm 2020, ngày 27/12.
Bà Hương cho biết dịch COVID-19 được kiểm soát chặt chẽ, nền kinh tế từng bước hoạt động trở lại trong điều kiện bình thường mới, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) có hiệu lực từ ngày 1/8... đã tạo động lực cho nền kinh tế, góp phần đưa GDP quý 4 tăng trưởng khởi sắc so với quý 3. Theo đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý 4 ước tính tăng 4,48% so với cùng kỳ năm trước, song đây cũng là mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2011-2020.
Như vậy, với mức tăng GDP của quý 1 là 3,68%, quý 2 tăng 0,39%, quý 3 tăng 2,69% và quý 4 tăng 4,48%, tổng sản phẩm trong nước cả năm 2020 tăng 2,91%. Đây là thành công lớn của Việt Nam khi mức tăng trưởng của cả năm thuộc nhóm cao nhất thế giới, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 hoành hành.
“Điều này cho thấy tính đúng đắn trong chỉ đạo, điều hành khôi phục kinh tế, phòng chống dịch bệnh và sự quyết tâm, đồng lòng của toàn bộ hệ thống chính trị, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và sự nỗ lực, cố gắng của người dân, cộng đồng doanh nghiệp để thực hiện có hiệu quả mục tiêu vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế-xã hội,” bà Hương nói.
Đáng chú ý, trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông-lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,68%, đóng góp 13,5% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Bên cạnh đó, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,98%, đóng góp 53% và khu vực dịch vụ tăng 2,34%, đóng góp 33,5%.
Chỉ ra một số điểm nhấn tạo động lực tăng tưởng, bà Hương cho hay trong khu vực nông-lâm nghiệp và thủy sản, sản lượng của một số cây lâu năm và sản phẩm chăn nuôi trong năm có mức tăng khá nên tốc độ tăng của khu vực này đạt cao hơn năm 2019. Nhờ đó, ngành nông nghiệp có mức tăng 2,55%, chỉ thấp hơn mức tăng của các năm 2011, năm 2012 và năm 2018, đóng góp 0,29 điểm phần trăm vào tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.
Bên cạnh đó, khu vực công nghiệp tăng 3,36% so với năm trước và đóng góp 1,12 điểm phần trăm; trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đóng vai trò chủ chốt dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với mức tăng 5,82% và đóng góp 1,25 điểm phần trăm.
Tuy nhiên, dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động thương mại, dịch vụ. Do đó, khu vực dịch vụ có mức tăng thấp nhất trong 10 năm qua. Một số ngành dịch vụ thị trường đóng góp tỷ trọng lớn vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm, như bán buôn và bán lẻ tăng 5,53% so với năm trước, đóng góp 0,61 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,87%, đóng góp 0,46 điểm phần trăm.
Về cơ cấu nền kinh tế năm 2020, bà Hương cho hay khu vực nông-lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 14,85%, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,72%, khu vực dịch vụ chiếm 41,63%, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,8% (cơ cấu tương ứng của năm 2019 là 13,96%; 34,49%; 41,64%; 9,91%).
Điểm nổi bật, năng suất lao động của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2020 ước tính đạt 117,9 triệu đồng/lao động (tương đương 5.081 USD/lao động và tăng 290 USD so với năm 2019). Theo giá so sánh, năng suất lao động tăng 5,4% do trình độ của người lao động ngày càng được nâng cao (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ năm 2020 đạt 24,1% và cao hơn mức 22,8% của năm 2019).
Trước đó, chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (hệ số ICOR) đã giảm từ 6,42 năm 2016 xuống 6,08 năm 2019. Bình quân giai đoạn 2016-2019, hệ số ICOR đạt 6,13, và thấp hơn so mức 6,25 của giai đoạn 2011-2015.
“Tuy nhiên trong năm 2020, do ảnh hưởng tiêu cực của dịch COVID-19 khiến hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế bị đình trệ, các dự án công trình hoàn thành đưa vào sử dụng chưa phát huy được năng lực nên ICOR năm 2020 đạt 14,28 và khiến bình quân giai đoạn 2016-2020 hệ số ICOR là 7,04,” bà Hương nói.
Bà Nguyễn Thị Hương, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê phát biểu:
Tốc độ tăng GDP năm 2023 đạt 5,05%
Trình bày báo cáo, Phó thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái cho biết, nhìn chung, tình hình KT-XH những tháng cuối năm 2023 tiếp tục phục hồi, tháng sau tích cực hơn tháng trước, quý sau cao hơn quý trước, cơ bản đạt được mục tiêu tổng quát đề ra và đạt nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực.
Theo đó, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2023 đạt 5,05%, tuy thấp hơn mục tiêu đề ra nhưng là mức cao trên thế giới và khu vực. Quy mô nền kinh tế đạt 430 tỉ USD, bước vào nhóm các nước trung bình cao. Lạm phát được kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng bình quân (CPI) tăng 3,25%. Thị trường tiền tệ, ngoại hối cơ bản ổn định, mặt bằng lãi suất giảm. Thu NSNN đạt trên 1,75 triệu tỉ đồng, vượt 8,2% và tăng 133,4 nghìn tỉ đồng so với dự toán, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH.
Nhiều chính sách, giải pháp được thực hiện đồng bộ, kịp thời và hiệu quả để hỗ trợ nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân. Đã miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất gần 191,5 nghìn tỉ đồng. Bội chi NSNN khoảng 3,5% GDP, dư nợ công khoảng 37% GDP, dư nợ Chính phủ khoảng 34% GDP, thấp hơn nhiều so với mức trần và ngưỡng cảnh báo. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 681 tỉ USD; xuất siêu 28,3 tỉ USD góp phần bảo đảm cán cân thanh toán, hỗ trợ cân đối ngoại tệ.
Phó Thủ tướng Lê Minh Khái cho biết, những kết quả đạt được của năm 2023 vẫn còn những hạn chế, tăng trưởng kinh tế chưa đạt mục tiêu đề ra, nhất là hoạt động sản xuất kinh doanh, tiếp cận tín dụng còn nhiều khó khăn. Tốc độ tăng năng suất lao động chưa đạt yêu cầu cũng như thủ tục đầu tư kinh doanh còn rườm rà…
Tăng trưởng GDP quý I/2024 đạt 5,66%
Bước sang những tháng đầu năm 2024, tình hình KT-XH tiếp tục phục hồi. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm. Tăng trưởng GDP quý I/2024 đạt 5,66%, cao nhất trong giai đoạn 2020-2023. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 4 tháng tăng 3,93% so với cùng kỳ. Điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ, giảm mặt bằng lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Trong 4 tháng đầu năm 2024, thu NSNN đạt 43,1% dự toán, tăng 10,1%; kim ngạch xuất khẩu tăng 15%; xuất siêu 8,4 tỉ USD. Giải ngân vốn đầu tư công đạt 17,46% kế hoạch, cao nhất trong 4 năm trở lại đây. Vốn FDI đăng ký mới đạt 7,11 tỉ USD, tăng 73,2%; FDI thực hiện đạt 6,28 tỉ USD, tăng 7,4%, cao nhất trong 5 năm trở lại đây. Nhiều tập đoàn lớn đã cam kết đầu tư vào Việt Nam trong các ngành điện tử, chíp, bán dẫn, năng lượng tái tạo…
Phó Thủ tướng Lê Minh Khái cho biết, kinh tế duy trì đà phát triển tích cực ở cả 3 khu vực. Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng khá, sản xuất công nghiệp phục hồi tích cực, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo; sản xuất và cung ứng điện, xăng dầu được bảo đảm, đáp ứng đủ nhu cầu cho sản xuất và sinh hoạt. Thương mại, dịch vụ tiếp tục có bước phát triển khá, kết cấu hạ tầng KT-XH được đẩy mạnh, nhất là các công trình hạ tầng giao thông, năng lượng quan trọng, trọng điểm quốc gia.
Mặc dù KT-XH 4 tháng đạt kết quả khá, nhưng Chính phủ cho biết vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, người dân còn gặp nhiều khó khăn. Sản xuất công, nông nghiệp phục hồi còn chậm, nhất là tại vùng đồng bằng sông Cửu Long do hạn hán, xâm nhập mặn kéo dài. Thị trường bất động sản phục hồi chậm, tiến độ triển khai gói cho vay nhà ở xã hội 120 nghìn tỉ đồng chưa đạt yêu cầu. Tiến độ một số dự án cao tốc, giao thông trọng điểm, giải phóng mặt bằng còn chậm…
Tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng
Đưa ra nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới, Chính phủ tập trung ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống và thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới. Tiếp tục thực hiện chính sách miễn, giảm lãi suất, giãn, hoãn, cơ cấu lại nợ và miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh.
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính và ngân sách nhà nước; mở rộng cơ sở thu, bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời và chống thất thu thuế, nhất là từ hoạt động kinh doanh dịch vụ ăn uống, thương mại điện tử xuyên biên giới… Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả. Điều hành tỷ giá, lãi suất phù hợp với tình hình thị trường.
Đặc biệt, quyết liệt triển khai ngay các giải pháp ổn định thị trường vàng theo quy định bằng việc chú trọng thanh tra, kiểm tra. Chỉ đạo triển khai ngay các giải pháp thu hẹp chênh lệch giá vàng miếng trong nước và quốc tế. Yêu cầu các doanh nghiệp kinh doanh vàng thực hiện hóa đơn điện tử kết nối với cơ quan thuế trước ngày 15/6/2024; rà soát, sửa đổi Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý kinh doanh vàng Nghị định số 50/2014/NĐ-CP ngày 20/5/2014 về quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước. Thực hiện thanh tra, kiểm tra các cơ sở kinh doanh vàng và báo cáo kết quả trong tháng 5/2024…
Về những giải pháp trọng điểm, Phó thủ tướng Lê Minh Khái cho biết, sẽ tiếp tục tháo gỡ khó khăn, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng. Hướng tín dụng vào sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng; phấn đấu tăng trưởng tín dụng đạt khoảng 15% và giảm lãi suất cho vay 1-2%. Đẩy mạnh giải ngân Chương trình 120.000 tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cải tạo chung cư cũ...