Đứng thứ 2 thế giới về sản lượng xuất khẩu cà phê qua nhiều năm liền, Việt Nam luôn được các quốc gia trên thế giới ngưỡng mộ bởi chất lượng cà phê tuyệt hảo. Đây là xứ sở của những sản phẩm cà phê có hương vị đặc biệt. Theo thống kê, các sản phẩm cà phê của Việt Nam hiện đã được xuất khẩu đến hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm 14,2% thị phần xuất khẩu cà phê nhân toàn cầu (chỉ sau Brazil).
Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ: Tiềm Năng Vẫn Còn
Các thị trường lớn khác như Nhật Bản, Trung Quốc và Hoa Kỳ vẫn duy trì mức nhập khẩu cà phê ổn định từ Việt Nam. Mặc dù không có sự tăng trưởng đột biến, nhưng đây vẫn là những thị trường tiềm năng với nhu cầu lớn và ổn định.
Năm 2023, xuất khẩu cà phê Việt Nam đã cho thấy sự linh hoạt và khả năng thích ứng cao. Bên cạnh việc duy trì thị phần tại các thị trường truyền thống như EU, các doanh nghiệp cà phê Việt Nam đã nhanh chóng nắm bắt cơ hội, mở rộng sang các thị trường mới nổi. Với chất lượng cà phê ngày càng được nâng cao và sự đa dạng hóa thị trường, ngành cà phê Việt Nam hứa hẹn sẽ tiếp tục gặt hái thành công trong những năm tới.
(TTĐN) - 6 tháng đầu năm, Đức là thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam đạt 383 triệu USD tiếp đến là Italy đạt 276 triệu USD, Nhật Bản đạt 238 triệu USD...
6 tháng đầu năm, Đức là thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam với 383 triệu USD, tăng 37% so với cùng kỳ
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, Việt Nam xuất khẩu 893.820 tấn cà phê trong 6 tháng đầu năm 2024, thu về 3,1 tỷ USD. So với cùng kỳ năm trước, giảm 11,4% về lượng nhưng giá trị xuất khẩu tăng 33,2%.
6 tháng đầu năm 2024, giá cà phê xuất khẩu trung bình của Việt Nam đạt 3.569,3 USD/tấn, tăng tới 50% so với cùng kỳ năm trước.
Về các thị trường, Hungary là thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam có giá trung bình cao nhất với 6.821 USD/tấn, đứng sau là Israel với 6.099 USD/tấn. Đây cũng là 2 trong số 37 thị trường có mức giá xuất khẩu cà phê trung bình trên 6.000 USD/tấn.
Tại mức 5.000 USD, Việt Nam ghi nhận xuất khẩu cà phê sang Ba Lan đạt giá trung bình là 5.586 USD/tấn và Lào với 5.314 USD/tấn.
Ở mức 4.000 USD, Việt Nam xuất khẩu cà phê sang Singapore đạt giá trung bình là 4.909 USD/tấn, Myanmar là 4.856 USD/tấn, Rumani là 4.230 USD/tấn, New Zealand là 4.189 USD/tấn, Philippines là 4.107 USD/tấn, Nam Phi là 4.087 USD/tấn, Malaysia là 4.029 USD/tấn.
Mexico là thị trường có giá xuất khẩu cà phê thấp nhất, bình quân đạt 2.974 USD/tấn, tiếp đến là Ấn Độ đạt 3.073 USD/tấn, Italy đạt 3.190 USD/tấn...
Về lượng, Đức dẫn đầu các thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam với 112.249 tấn trong nửa đầu năm 2024, tuy nhiên so với cùng kỳ năm trước con số này đã giảm 13%. Đứng sau là Italy với 86.588 tấn, giảm 6% so với cùng kỳ năm trước; Tây Ban Nha với 64.391 tấn, tăng 19% so với cùng kỳ năm trước; Nhật Bản với 63.127 tấn, tăng 4% so với cùng kỳ năm trước...
Trong khối ASEAN, Việt Nam xuất khẩu cà phê sang 8 thị trường. Nhìn chung, lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang khối thị trường này đều tăng trưởng tốt so với cùng kỳ năm trước.
Indonesia là thị trường có lượng xuất khẩu cà phê lớn nhất với 41.030 tấn, tăng 47% so với cùng kỳ năm trước. Đứng sau là Philippines đạt 32.572 tấn, tăng 61% so với cùng kỳ năm trước; Thái Lan với 23.655 tấn, tăng 83% so với cùng kỳ năm trước; Malaysia đạt 19.605 tấn, tăng 54% so với cùng kỳ năm trước; Campuchia đạt 1.113 tấn, tăng 55% so với cùng kỳ năm trước; Singapore với 804 tấn, tăng 22% so với cùng kỳ năm trước và Lào với 76 tấn, tăng 49% so với cùng kỳ năm trước.
Myanmar là thị trường duy nhất trong khối giảm về lượng với -19% so với cùng kỳ năm trước, đạt 1.311 tấn.
Trong số 37 thị trường xuất khẩu cà phê chính của Việt Nam, 22 thị trường giảm và 15 thị trường tăng về lượng so với cùng kỳ năm trước.
Về giá trị, 10 thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam có kim ngạch trên 100 triệu USD trong 6 tháng đầu năm 2024 với tổng 2,02 tỷ USD, tương ứng chiếm 65% tổng kim ngạch.
Trong đó, Đức là thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam với 383 triệu USD, tăng 37% so với cùng kỳ năm trước. Đứng sau là Italy với 276 triệu USD, tăng 37% so với cùng kỳ năm trước; Nhật Bản với 238 triệu USD, tăng 47% so với cùng kỳ năm trước; Tây Ban Nha với 236 triệu USD, tăng 82% so với cùng kỳ năm trước.
Việt Nam còn thu về 189 triệu USD từ việc xuất khẩu cà phê sang Nga, tăng 35% so với cùng kỳ năm trước; Mỹ đạt 189 triệu USD, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước; Indonesia đạt 160 triệu USD, tăng 95% so với cùng kỳ năm trước; Philippines đạt 133 triệu USD, tăng tới 113% so với cùng kỳ năm trước; Hà Lan đạt 116 triệu USD, tăng 88% so với cùng kỳ năm trước; Trung Quốc đạt 103 triệu USD, tăng 44% so với cùng kỳ năm trước.
Trong khối ASEAN, xuất khẩu cà phê sang Malaysia thu về 79 triệu USD, tăng 105% so với cùng kỳ năm trước; sang Thái Lan đạt 85 triệu USD, tăng 81% so với cùng kỳ năm trước; Myanmar đạt 6,3 triệu USD, giảm 21% so với cùng kỳ năm trước; Campuchia đạt 4 triệu USD, tăng 95% so với cùng kỳ năm trước; Singapore đạt 3,9 triệu USD, tăng 25% so với cùng kỳ năm trước; Lào đạt 0,4 triệu USD, tăng 100% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 37 thị trường chính, kim ngạch xuất khẩu cà phê sang 9 thị trường giảm và 28 thị trường tăng so với cùng kỳ năm trước.
Ngọc Ngân Nguồn: congthuong.vn
Tổng Quan Xuất Khẩu Cà Phê Năm 2023
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, năm 2023, tổng diện tích cà phê cả nước cho thu hoạch là 653.000 ha, sản lượng đạt 1,845 triệu tấn. Tuy nhiên, sản lượng cà phê năm nay có sự thu hẹp do nhiều diện tích cà phê đã được chuyển đổi sang trồng sầu riêng và các loại cây ăn trái khác.
Xuất khẩu cà phê đạt 1,62 triệu tấn, trị giá 4,24 tỷ USD, giảm 8,7% về lượng và tăng 4,6% về trị giá so với năm 2022. Giá xuất khẩu trung bình đạt 2.614 USD/tấn, tăng 14,5% so với năm 2022. Việt Nam tiếp tục giữ vị thế số hai thế giới về xuất khẩu cà phê, sau Brazil.
Cà phê Robusta tiếp tục chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu xuất khẩu của ngành với 78,5%, đạt 3,2 tỷ USD, tăng 2,8% so với năm 2022. Trái lại, cả lượng và giá trị xuất khẩu cà phê Arabica đều giảm lần lượt là 32,8% và 9,3%.
Thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam
Thị trường EU chiếm tỷ trọng lớn nhất với 35% tổng lượng xuất khẩu cà phê, đạt 1,48 tỷ USD, giảm 0,7% so với năm 2022. Nhiều thị trường đạt tăng trưởng cao so với năm 2022 như Đan Mạch, Hà Lan, Bồ Đào Nha. Một số thị trường khác duy trì ổn định như Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nga. Xuất khẩu cà phê cũng tăng trưởng mạnh ở một số thị trường mới nổi như Indonesia, Algeria, Myanmar và New Zealand.
Các Thị Trường Mới Nổi: Cơ hội bứt phá
Bên cạnh thị trường EU truyền thống, năm 2023 đánh dấu sự trỗi dậy của nhiều thị trường mới nổi đầy tiềm năng:
Indonesia: 132,7 triệu USD, tăng trưởng vượt bậc 122,4%. Algeria: 160,2 triệu USD, tăng trưởng ấn tượng 88,4%. Myanmar: 19,3 triệu USD, tăng trưởng 89,1%. New Zealand: 4,8 triệu USD, tăng trưởng 60%.
Sự tăng trưởng mạnh mẽ này cho thấy nhu cầu cà phê đang mở rộng ra ngoài những thị trường truyền thống. Đây là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp cà phê Việt Nam mở rộng thị trường và đa dạng hóa đối tác xuất khẩu.
Thị Trường EU: Vẫn là điểm đến hàng đầu
EU tiếp tục là thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam, chiếm 35% tổng lượng xuất khẩu, đạt 1,48 tỷ USD, giảm nhẹ 0,7% so với năm 2022. Dù vậy, một số thị trường trong EU lại đạt mức tăng trưởng đáng kể:
Đan Mạch: 4,1 triệu USD, tăng 96,7%. Hà Lan: 121,7 triệu USD, tăng 76,5%. Bồ Đào Nha: 35,6 triệu USD, tăng 51,3%.
Các thị trường lớn khác như Đức, Ý, Pháp, Tây Ban Nha duy trì kim ngạch ổn định so với năm trước. Điều này cho thấy sự ổn định trong nhu cầu cà phê tại EU, đặc biệt là cà phê Robusta, loại cà phê chủ lực của Việt Nam.